Cảm Nhận Từ Huế
Huế, những ngày mưa đầu mùa
Bây giờ còn đó hình ảnh ngôi trường xưa: Di Luân Đường cổ kính trầm tư giữa các dãy nhà liên lớp, kia là văn phòng. Sân trường ngày ấy rợp bóng bàng, bóng mù u. Hình ảnh đó cho ta cảm nhận quá khứ vừa đẹp vừa buồn. Đẹp buồn như cuối hạ năm nào, cầm học bạ trên tay nhìn lại sân trường đầy lá, lòng bâng khuâng khi ngôi trường bấy giờ sẽ trở thành ngôi trường cũ. Hoặc vừa đẹp vừa buồn như hơn hai mươi năm sau đó, một chiều bất chợt dừng đôi chân mỏi mệt đứng trước bức tường thấp ngó vào ngôi trường đã từ lâu không còn bóng dáng học trò để thấy một thời hoa niên đã lặng lẽ trôi qua và tên ngôi trường đấy đã đi dần vào cõi nhớ.
Trường chúng ta. Lớp chúng ta. Ôi những Thầy, những Cô, những Giáo sư Hàm Nghi khả kính của anh em chúng ta. Cô đã có những giọt nước mắt lương tâm của nhà giáo mẫu mực tận tụy với đám học trò chúng em ngày ấy hoang nghịch mà cũng rất đỗi vô tư. Thầy đã cười rạng rỡ môi hồng cùng chia sẻ nỗi vui vì thật bất ngờ trước thành quả thi cử của học trò mình: học trò Hàm Nghi!
Bây giờ Thầy ở đâu, Cô ở đâu?
Còn anh em chúng ta: học trò thất 1, lục 1, ngũ 1, tứ 1; chúng ta đã có biết bao kỷ niệm của thời làm học trò đa phần khốn khó nhưng ngày ấy chúng ta buồn thì ít mà vui thì nhiều. Rồi như đàn chim, sau ngày 24 tháng 4 năm 1963, bắt đầu biết buồn ấy cũng là lúc hăm hở vỗ cánh bay đi. Mấy chục năm qua rồi với bao thăng trầm của cuộc thế. Cây bàng đã mấy mươi lần thay lá, phượng trong Thành Nội mấy chục lần kết trái đơm bông. Cây mù u, cây nhãn ngày nào có còn che mát lối xưa đi về ngôi trường cũ ấy? Giờ ngồi nhẩm tính loài chim nào đã sớm gãy cánh để đi vào cát bụi, chim nào đã bạt gió bay xa xứ mẹ ngàn trùng, chim nào còn ở lại cố đô sau bao mùa giông bão. Cuộc đời nào mãn nguyện thành đạt? Chỉ tiếc rằng chúng ta không thể ngồi mãi trên thành lắng nghe tiếng máy nhẹ nhàng ngược dòng thời gian cho lòng bồi hồi trôi về dĩ vãng. Bởi lẽ hai bên bờ sông Hương tất bật ngược xuôi kia còn cả hiện thực cuộc đời. Chỉ tiếc rằng không phải là đêm để ta nghe thấy trăng hạ tuần soi bóng xa xăm mong manh mềm mại rồi cùng nói với nhau rằng mới đó mà đã 40 năm cho tóc thầy hóa bạc và tóc trò lấm tấm muối nhiều hơn tiêu.
Giờ đây ta có cơ may thấy lại nhau để cùng nhắc lại cho nhau, nhắc cho chính mình về những ngày tháng thân thương ấy… Để sau hành trình của mỗi một cuộc đời riêng có lắm thành, bại, buồn, vui… khi nằm nghỉ lưng gác tay lên trán ngắm lại mình, ngắm lại bạn bè, nhớ lại Thầy Cô trong những ngày tháng xa xôi ấy chúng ta lại thấy mình gần gũi nhau hơn.
Mong rằng những lúc như thế, tập này là cái gối khơi dậy những kỷ niệm thật êm cho chúng ta. Nắng chiều đang chập chờn bên khung cửa, hãy cùng nhau cảm tạ quá khứ và trân trọng giây phút hội ngộ này.
Nguyễn Xuân Cảnh đọc xong bài viết của tôi rồi ngẫm nghĩ. Hai đứa nằm bên nhau ở trên chiếc giường cũ sau vườn nhà Cảnh ở Bảo Chánh - Đồng Nai. Nhìn những cây điều xơ xác trong vườn, mỗi đứa theo đuổi một ý riêng.
Xa nhau mấy chục năm, tôi từ Huế vào thăm Cảnh ở đây. Bất ngờ gặp nhau, chúng tôi nói chuyện này qua chuyện nọ cuối cùng là chuyện lớp cũ trường xưa, chuyện họp lớp bạn bè, Thầy Cô. Sau hồi lâu Cảnh nói: hồi xưa học Việt văn trung học tau chỉ thua thằng Đoàn, thằng Phụ. Tau cứ được cô Hương khen vì chữ đều, đẹp, bài làm sạch sẽ. Ở trường được thầy cô dìu dắt khuyến khích mình chịu khó cố gắng nên lúc nào điểm cũng trên trung bình. Trái lại khi ra đời thiếu nguồn khích lệ “môn” nào cũng dưới trung bình. Nhớ lại năm thầy Khác dạy việt văn đệ tứ thầy nói mấy trò đứng từ thứ 10 lên thứ 1 khi ra đời khó thành công trong vai trò điều hành chỉ huy. Học thì giỏi, năng lực thì khá, kỹ thuật thì cao nhưng ra đời giỏi lắm thì được làm chủ sự, trưởng phòng hay đi dạy học mà thôi, vì đa số các em lúc nào cũng sợ, sợ kỷ luật… nên trọng kỷ luật, duy trì kỷ luật chứ đừng sợ, trong số 10 đó chỉ trừ vài em đặc biệt… còn lại do sợ… do tự khép mình chặt chẽ vào khuôn phép nên đôi khi sợ mạo hiểm! (Có lẽ tụi em nằm trong số 8/10 mà thầy đã nói đúng như thế).
Cảnh nói: bài này đọc cũng tạm xuôi nhưng chung chung thôi, tụi mình nên gom góp ý nhau nhớ lại chi tiết về Thầy cũ Cô xưa của mình, tau nghĩ không ai không nhớ. Mình cũng thử nhớ lại, kẻo không còn kịp nữa.
Thầy Khuê dạy nhạc năm đệ thất. Mắt thầy to, dữ. Thầy hay thắt nơ đen, đàn phong cầm dìu tiếng hát học sinh khi chào cờ. Đọc bài thầy là phải thuộc lòng, đọc một mạch không ngập ngừng bài đầu “âm nhạc là nghệ thuật kết hợp và tiết tấu âm thanh, âm thanh là tiếng vang trong không khí do vật chất rung lên truyền đến tai ta nghe thấy, kết hợp là ghép những tiếng trầm bổng lại với nhau. Tròn bằng hai trắng bốn đen tám móc, mười sáu móc kép, hai mươi hai móc ba và sáu mươi bốn móc tư”. Hai thằng tôi cùng đọc và cùng cười… Thầy Giảng thì mập, vui, dễ tính thầy dạy xướng thanh năm đệ tứ và tập cho học sinh hát bài “Hàm Nghi hành khúc: Ta là học sinh Hàm Nghi tươi như hoa…”. Thầy Uyển dạy vẽ đi học phải có cây tăm xe đạp để cầm tăm nheo mắt đo và vẽ tĩnh vật… thầy hay bày học trò ngâm giấy vụn vào nước quết nhuyễn trộn hồ đắp thủ công lọ hoa… Thấy Kính Tổng Giám Thị dạy công dân khuyên học trò trọng kỷ luật: mặc đồng phục, mang huy hiệu, không được đạp quai dép sau, không mang dép đế cứng đóng đinh… Thầy khuyên học trò cố gắng hết sức mình và gìn giữ kỷ niệm. Thầy đem theo trong cặp bằng danh dự tiếng Pháp của thầy lúc còn học thời Pháp… thầy nói thầy đã giữ được mấy chục năm rồi… Thầy Triệp thì mập trắng hồng và mắt to. Thầy ra sách vạn vật đệ tứ, dạo đó đệ tứ đều học sách của thầy. Năm đệ lục thầy có dạy thế giờ vạn vật một lần, thấy đã “thuyết trình” cho cả lớp phương pháp soạn lại tóm tắt các bài vạn vật về loài trực xison chung trên nửa tờ giấy Croquis để dễ so sánh và học mau thuộc như con nào mắt kép, mắt đơn, mắt đơn biện khẩu cái… bao nhiêu khí khổng, v.v… về sau lớp chúng tôi các bạn đều dựa theo cách của thầy để soạn các bài tóm tắt hóa vô cơ (đệ ngũ), hóa hữu cơ (đệ tứ) trên một tờ giấy nên học rất khỏe.
Dù không chính thức học với thầy song lớp chúng tôi đứa nào cũng ngưỡng mộ thầy và quyển vạn vật của thầy lúc đó là cẩm nang cho tôi bước vào trường Cán sự Y tế Huế. Nhắc đến vạn vật thì không thể quên thầy Võ. Thầy Võ dạy vạn vật lớp đệ tứ chúng tôi, giờ dạy thầy rất vui và rất thoải mái cho học trò thắc mắc. Hồi đó vạn vật hỏi chi thầy cũng biết và rất thích học trò tìm hiểu. Mùa lạnh ở Huế có năm lạnh dữ, trước giờ học thầy bắt học trò đứng lên làm theo thầy: xoa hai tay vào nhau, xoa mặt, xoa đùi, làm nhiều động tác rất vui và lúc đó mặt thầy rất tươi… Thầy Hiếu dạy toán và công dân, đặc biệt các bài công dân dính đến luật thầy đọc một mạch thuộc lòng như cháo cả lớp sửng sờ rồi cùng cười, thầy cũng cười nhưng mắt hẹp lại và mặt đỏ bừng. Thầy Chân thì trắng trẻo hiền lành làm giáo sư hướng dẫn đệ ngũ 1 năm sau đó thầy qua phòng thí nghiệm - thầy dạy lý. Thầy Oanh dạy văn và công dân đệ thất. Ý của thầy học trò trước hết phải cẩn thận nên cứ bạn nào làm bài chữ đẹp, sạch, trình bày đàng hoàng thể nào cũng chắc ăn trên điểm trung bình. Thầy dạy thêm chữ Hán mỗi tuần một giờ trong chương trình Việt văn. Võ Sĩ Sừ hay được thầy giáo viết chữ nho trên bảng. Năm đệ thất lớp tôi học anh văn với thầy Liễn. Chúng tôi bị chép phạt gần 40 đứa, dạo đó chúng tôi học “L’anglais vivant: this is Jack, Jack is a boy, a boy is a person”. Có bạn viết sai bị chép 1.000 lần. Riêng Võ Sĩ Sừ thầy hay đọc “Sừ..Võ Sĩ” thầy cười cả lớp cười thoải mái. Khóa thi 24/4/1963 bên lớp đệ tứ chúng tôi đến nhà cô Hương coi bảng trước, thầy có ở đó (số 13 Hàn Thuyên, Thành Nội) thầy đã đọc tên và hạng cho từng đứa và vui vẻ chúc mừng. Đó ngày cuối cùng chúng tôi gặp thầy.
Nếu nói thầy Khác dạy văn hay, dạy sử tuyệt vời, học trò giờ vẫn nhớ những điều thầy nói về kênh đào Suez, nói về Trung đông như in: “Khi các em trưởng thành rồi, Trung Đông vẫn âm ỉ lò lửa!” Chúng ta phải nói thầy Dật dạy địa hấp dẫn. Giờ dạy đã xong, thầy cầm cặp ra khỏi lớp thầy đi xa dần mà học trò còn ngẩn ngơ luyến tiếc!
Cô Kim Tiêu năm chúng tôi đệ thất cô dạy địa chúng tôi đã ớn vì cặp mắt cô sáng mà “lạnh” quá. Lên đệ lục khi chép thời khóa biểu thấy có cô ở môn lý - hóa hầu như cả lớp đều sợ. Điều cô muốn là học trò phải vâng lời. Giấy vở làm bài giảng phải bóc đinh lấy ra nhẹ nhàng dùng móng tay cà phẳng lấp lỗ đinh, cô đưa giấy lên lỗ đinh còn xơ còn rõ là bài đó cô không chấm, nghĩa là ăn trứng vịt lộn. Còn bài làm thì phải chừa lề 1/3, dấu bằng và dấu phân số phải nằm thế nào cho thẳng, cho cân, cho đẹp. Trong lớp khoảng 10 bạn là bài làm hoàn hảo! Những cái “khó” của cô sau này trở thành căn bản cho chúng tôi. Khi nhắc nhở cách làm bài cho con mình tôi luôn luôn nhớ đến cô, nhớ đến cách trình bày dấu bằng, dấu phân số… Tôi cũng bắt chước cô lúc viết bảng, chữ cái nào không vừa ý, nghiêng cạnh bàn tay phải quệt nhẹ xuống xóa một cách nhẹ nhàng. Khi cô viết trên bảng lớp chúng tôi đứa nào cũng thấy và cũng bắt chước cách xóa như cô: nhanh, gọn. Còn thấy Huế thể dục, học trò ưa nhìn thấy mặc may ô trắng quần dài quay trên parafic hoặc nhào lộn trên xà kép. Thầy vừa là ông bầu vừa là huấn luyện viên của các đội bóng trường Hàm Nghi.
Cuối cùng chúng tôi lẽ ra còn nhắc lại nhiều thầy cô nữa nhưng chúng tôi cùng nhau dành những kỷ niệm về cô Giáo sư hướng dẫn lớp đệ lục 1 của chúng tôi: Cô Trần Thị Hoắc Hương. Ngày đầu tiên cô hướng dẫn là vẽ bản đồ chỗ ngồi học sinh trong lớp, làm tờ khai sơ lược bản thân, gia đình, trả lời trên giấy các câu trắc nghiệm tâm lý: “sở thích, năng khiếu của em, em thích màu gì để cạnh màu gì…” sau đó 59 học sinh đều phải vẽ bản đồ chi tiết các con đường từ nhà đến trường ghi tên đường, địa danh làng xóm cầu cống… cô đã tổ chức cho lớp đi thăm thắng cảnh, tường thuật và phê bình, cô đã đạp xe tới thăm nhà từng học trò của mình ưu tiên là gần 30 học trò ở các làng quê xa phố Huế. Cô biết rõ hoàn cảnh từng đứa học trò của mình. Cô thương Nguyễn Xuân Cảnh vì Cảnh mồ côi mẹ học giỏi, cô thương tôi vì tôi mồ côi cha học chăm. Hai đứa chúng tôi một ở Hương Cần một ở Hương Vinh cũng choàng tơi đi học mùa mưa với nón lá đi bộ từ đường nhà lầy lội tối tăm đến trường với mo cơm bới. Đa số các anh ở Long Hồ, Nguyệt Biều, Phú Mậu, La Chữ cũng đều như chúng tôi cả. Cảnh ngồi bàn nhì, đầu bàn, vai áo bị sờn chỉ một đoạn, cô Hương vừa đọc bài cho học trò chép vừa nhẹ nhàng kéo mép áo rách khuất da cho Cảnh. Buổi chiều giờ hiệu đoàn cô đã lấy chỉ khâu áo cho Cảnh. Những năm chiến tranh dữ dội Cảnh tình cờ gặp tôi ở Quảng Trị, chúng tôi cùng ngồi trên xe nghe nhạc Trịnh Công Sơn “Một ngày dài trong lo âu…” chúng tôi hỏi thăm bạn bè thầy cô, nhắc lại kỷ niệm về cô giáo giáo sư hướng dẫn năm xưa của mình lòng bồi hồi xúc động mong sao sớm kết thúc cuộc chiến tranh để có cơ may đoàn tụ gia đình bè bạn và người thân.
Nay trong bạn bè Trát, Kính, Lập, Đoàn, Trân, Táo, Nguyễn Xuân Quý ở quá xa. Kiện, Sừ, Bê, Tuệ, Quýnh ở Hương Long, Viêm ở Hương Hồ. Hồ Xuân Quý ở Nguyệt Biều. Tây, Túc, Đông, Sinh, Châu, Tuấn ở Thành Nội, Minh, Cử ở Đà Nẵng, Phát ở Sài Gòn, Trợ ở Di Linh, Tân ở Lộc Ninh… tất cả đều đồng ý như Cảnh: Phải viết một điều gì đó về thầy cô của mình kẻo không còn kịp nữa.
Thật vậy, Nguyễn Xuân Cảnh đã không kịp về với Huế để họp lớp trên thuyền rồng, đã không còn cơ hội thăm thầy Khác, thầy Võ, cô Tiêu, cô Hương và đốt nén nhang trên bàn thờ Thầy. Tất cả đã không còn kịp như anh nói. Anh đã vĩnh viễn nằm lại ở đất Bảo Chánh độ tuổi xấp xỉ 60, nơi đó có vườn điều luôn chậm trổ bông vì khô hạn.
Còn lại tiếp tục công việc chung của Cảnh và của anh em trong lớp, tôi vụng về chắp nối hồi ức về quý thầy cô của mình với một tấm lòng trân trọng và chân thật. Tôi ước mong quý thầy cô cũ của mình đọc lại với lòng bao dung như thời còn dạy dỗ chúng tôi, bởi vì như Cảnh nói: Sợ không còn kịp nữa và vì do sự không còn kịp nữa nên sẽ thiếu sót rất nhiều…